Thứ Năm, 11 tháng 1, 2018

Lịch sử xuất hiện thị trấn vệ tinh trong cấu trúc thị trấn Thủ đô |

(Xây đắp) - Điểm rõ thấy nhất trong cấu trúc đô thị theo Quy hoạch chung xây dựng Hà Nội Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn 2050 được chuẩn y là các thành phố vệ tinh gắn kết với thành phố trọng tâm nhưng có chức năng riêng, đặc trưng để cùng thực hiện vai trò của Thủ đô. Trong giai đoạn đô thị hoá ở vn, các thị trấn lớn đang chịu áp lực lớn về dân số, quá vận tải cơ sở vật chất công nghệ, ô nhiễm môi trường. Phát triển đồng bộ các thành phố vệ tinh với cấu trúc và đặc trưng có thể coi là giải pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng phát hành vững bền.


Môi trường quy hoạch xây đắp khu đô thị mới phát hành tại thị trấn vệ tinh Sóc Sơn (Hà Nội).

Điểm rõ thấy nhất trong cấu trúc thành phố theo Quy hoạch tầm thường (QHC) xây đắp Hà Nội Thủ đô đến năm 2030 tầm nhìn 2050 được duyệt là các đô thị vệ tinh kết nối với thị trấn trọng tâm nhưng có tác dụng riêng, đặc thù để cùng thực hiện vai trò là Thủ đô. Trong thời kỳ đô thị hoá ở vietnam, các đô thị lớn đang chịu áp lực lớn về dân số, quá chuyển vận cơ sở vật chất khoa học, ô nhiễm môi trường. Phát hành đồng bộ các đô thị vệ tinh với cấu trúc và đặc trưng được xem là biện pháp nâng cao chất lượng phát hành vững bền cho đô thị Hà Nội.

Công đoạn thành phố hóa và mô phỏng chùm thị trấn, thành phố vệ tinh

Trên thế giới quá trình thị trấn hoá (ĐTH) có thể phân thành 3 quá trình: Thời kỳ tiền công nghiệp, giai đoạn kĩ nghệ, thời kỳ hậu kĩ nghệ. Trong khoảng thế kỷ 19, cách mệnh kỹ thuật đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế bờ cõi, ĐTH gắn với tốc độ công nghiệp hoá (CNH) và hiện đại hoá (HĐH). Cấu trúc đô thị từ mô hình dồn vào một chỗ dễ chơi đã chuyển sang mô hình đa dạng, phức hợp hơn để giải quyết vấn đề không gian, hạ tầng công nghệ, nhất là giao thông chuyển động.

Chung, công nghệ được đưa ra ngoài thị trấn như mô phỏng bắt buộc đô thị Zachisi (1933), Thủ đô Alger (1934) của Lecorbusier. Mô hình “Thành phố vườn” ở Anh với biện pháp cách thức ly khu công nghiệp với các khu ở bằng dải cây xanh. Đối với vài thành phố lớn đã xuất hiện mô hình phân tán cư dân ra xung quanh đô thị hạt nhân, chủ động lập các vòng đai xanh để kiềm chế nhạo tạo ra các đô thị quá lớn, siêu thành phố như quy hoạch Matxcơva của G.B. Krasin (1930), quy hoạch London của Patrick Abercrombie (1944), quy hoạch Tokyo mở rộng của Kenzo Tange (1950).

Tương tự, trong giai đoạn công nghệ đã xuất hiện mô hình chùm đô thị gồm các thị trấn kết hợp với nhau. Các mô phỏng chùm thị trấn đã đích thực phát huy vai trò và là động lực, lợi thế đẩy nhanh vận tốc ĐTH, CNH. Thực tế cho thấy một vài nước phát triển sau như: Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Phiên bản, chỉ sau 20 - 30 năm đã là nước công nghệ phát hành có tỷ lệ đô thị cao, các nước châu Âu như: Anh, Pháp, Mỹ phải cần thời gian 100 - 150 năm.

Bước sang quá trình hậu công nghiệp, quá trình ĐTH trên trái đất đã có thử thách lớn. Hội nghị Quốc tế về dân số và tương lai thị trấn (1984) đã phản hồi: ĐTH với tốc độ cao và khuynh hướng hình thành các thành phố lớn (trên 5 triệu dân) đang chuyển trong khoảng phương Tây sang phương Đông.

Hội nghị Thượng đỉnh quốc tế (1990) về “bảo kê môi trường sinh thái sản xuất vững bền” ở Rio de Janero đã đưa ra khuyến nghị sản xuất với tốc độ cao nhưng cần vững bền. Các nước đang phát hành hoặc có dân số già hoá cần có mô phỏng thành phố thân thiết. Đây cũng là những thử thách với Việt Nam trong công đoạn tạo ra đô thị nhanh. Nếu như năm 1985 cả nước có gần 500 đô thị, tỷ trọng ĐTH là 19% thì đến năm 2000 tỷ lệ ĐTH đã là 34,2% và tới năm 2015 đã có đến 787 thị trấn tỷ trọng đô thị hóa ~39% với 05 đô thị trực thuộc Trung ương, 67 đô thị thuộc tỉnh giấc, hơn 50 thị thị trấn, còn cơ bản là đô thị.

ĐTH với tốc độ cao đã tạo động lực đẩy mạnh CNH - HĐH non sông song cũng tạo sức ép cho các thành phố lớn, nhất là với Hà Nội, TP HCM đang có dân số đến ngưỡng siêu đô thị, đã đến lúc cần cấu trúc thành phố thích hợp.

Kinh nghiệm từ nước ngoài cho thấy bài học thị trấn vệ tinh của London (Vương quốc Anh) là rất đáng ân cần. Để khắc phục ý định ở đẩy mạnh sau chiến tranh trái đất thứ nhất, Chính phủ Anh đã sản xuất các khu ở theo mô hình “thị trấn vườn” của Ebenezer Howard. Tuy nhiên, mô hình trước tiên này chỉ là hình thành “khu ở” xây đắp phân tán chưa phải là thành phố. Trong khoảng thực tại này đã tiến tới xây dựng khu công nghệ gắn kết với công dụng khu ở toàn vẹn tiện nghi và tương đối chủ quyền với London để tránh trạng thái chuyển động con thoi trong khoảng thị trấn vệ tinh tham gia thành phố trọng điểm. Nhờ thế mà đã giảm áp lực vào London.

Trong quy hoạch thành phố vệ tinh này, vai trò vòng đai xanh ngày càng được chắc chắn là nhân tố cần thiết, được xác định là dụng cụ để hạn dè bỉu mở mang trung tâm London. Cùng với mô phỏng quy hoạch với vành đai xanh là thể chế quản lý được thực thi chặt chẽ mà mô phỏng chùm thành phố ở London đã chiến thắng. Bài học ở đây cho thấy cần có sự đồng bộ giữa mô hình quy hoạch có lí với điều hành xây dựng theo quy hoạch và thể giễu cợt điều hành.

Quy hoạch đô thị vệ tinh tại vietnam

Tổng quan thời kỳ phát triển thị trấn ở vn cho thấy:

Quá trình phong kiến: Xuất phát trong khoảng nền kinh tế nông nghiệp tiểu nông tự cung tự cấp, phần nào “bế quan toả Hoa phượng đỏ” nên vận tốc ĐTH không cao. Các thị trấn chủ yếu sinh ra trong khoảng đồn trú quốc phòng, phân chia bờ cõi hành chính, “thành phố hành chính” gắn với các điển dân cư vùng quê. Một vài đô thị trung tâm bên cạnh “thành” còn hình thành “thị” với chức năng thương mại, đóng chai thủ công. Công nghệ, đóng chai nhỏ tuổi nên chưa gây áp lực cho thành phố.

Giai đoạn Pháp thuộc: Với chế độ khai thác thực dân địa, mạng lưới đô thị được sinh ra rải đều, song căn bản là thành phố nhỏ tuổi và có một số đô thị có tác dụng thương mại, công nghệ quy mô tí hon. Đô thị đã có sự riêng biệt khỏi vùng quê, hiện ra sớm cấu trúc thành phố mới hơn so với các nước trong khu vực, mô phỏng “chuỗi đô thị” với thành phố có không gian kiến trúc đặc thù là đặc điểm cần để ý của giai đoạn này.

Thời kỳ trong khoảng sau cách mệnh 04 tuần Tám: Miền Bắc chủ công ứng dụng nguyên tắc ĐTH của các nước XHCN. Thị trấn dù xây dựng mới hay làm mới đều gắn với chức năng chế biến, kĩ nghệ. ĐTH gắn với phát hành kinh tế và an toàn quốc phòng. Chuỗi hệ thống đô thị phát hành theo tầng bậc, chủ yếu là các thị trấn gầy và vừa với các tác dụng như: thành phố công nghiệp, thị trấn Cảng, thành phố tổng hợp, đô thị hành chính, thị trấn nghỉ ngơi… Điều cần quan tâm là từ sau hợp nhất nước nhà (1975) nhất là từ sau “đổi mới”, ĐTH ở vn đã phát triển mạnh, chuyển hoá trong khoảng mô phỏng đô thị tính năng “đóng” sang mô phỏng thành phố mở. Một vài đô thị lớn do sức ép từ phát hành kinh tế hoặc đòi hỏi bình an quốc phòng đã chịu áp lực để chuyển hoá sang mô hình “chùm đô thị”, rõ thấy nhất là với Thủ đô.

Trong bối cảnh như vậy, năm 1998 Chính phủ đã có “Xác định phương hướng sản xuất đô thị vn tới 2030″ (Quyết định 10/1998/QĐ-TTg) với công ty hệ thống thành phố theo 10 vùng đô thị hóa. Mỗi vùng ít nhất có một thị trấn hạt nhân vào vai trò cực lớn mạnh. Thời kỳ công ty thực hiện đã tạo được chuỗi hệ thống thị trấn sản xuất mạnh và phân bố đều trên cả bờ cõi. Yếu tố đáng lưu ý là có đến gần 50% dân số đô thị dồn vào một chỗ tại TP Hà Nội và TP HCM, chuỗi hệ thống thành phố phát triển nhanh song đã bộc lộ những sinh tồn là phát hành thiếu vững bền, thiếu nguồn lực tạo ra kết cấu cơ sở vật chất, bất cập trong phân bố dân số và dùng đất thị trấn, năng lực quản lý đô thị chưa tương ứng sản xuất và nhất là chưa tính đến ảnh hưởng của chuyển đổi khí hậu.

Từ các tồn tại trên, Chính phủ đã có điều chỉnh xác định phương hướng phát hành hệ thống thành phố vn (Quyết định 445/QĐ-TTg ngày 07/4/2009). Theo đó: Mạng lưới thị trấn được phân cấp và bố trí có lí theo 6 vùng kinh tế - xã hội quốc gia; Sinh ra các đô thị lớn, cực lớn tạo ra theo mô hình chùm thành phố có thị trấn đối trọng hoặc thành phố vệ tinh với vành đai bảo kê để hạn dè bỉu dồn vào một chỗ dân số, mất thăng bằng sinh thái; Hiện ra các chuỗi thị trấn dọc hành lang biên giới, ven biển, hải đảo để gắn phát hành kinh tế với bảo đảm an ninh quốc phòng.

Trong khoảng xác định phương hướng nêu trên và từ giai đoạn sản xuất đã tác động mạnh tới cấu trúc các đô thị lớn. Thủ đô sau mở rộng địa giới (2008) với quy mô đất thiên nhiên lên đến 3.344km2, dân số 6,4 triệu người. Cho nên, mô phỏng cấu trúc thị trấn Hà Nội phải được nghiên cứu để có định hướng thích hợp.


Xác định phương hướng phát triển môi trường Quy hoạch tầm thường xây đắp Thủ đô Thủ đô đến năm 2030 góc nhìn 2050

Xác lập cấu trúc và đặc biệt mô phỏng đô thị vệ tinh Hà Nội

Chẳng phải chỉ sau mở mang địa giới 2008 mà trong công đoạn tạo ra trong khoảng sau hoà bình lập lại 1954, Hà Nội đã 4 lần nhân tố chỉnh địa giới, 7 lần có quy hoạch bình thường được phê duyệt, đã có lần được xác định phương hướng sản xuất theo mô hình “chùm thị trấn” với thị trấn trọng điểm và đô thị đối trọng.

QHC Thủ đô Hà Nội năm 1974 đã định hướng phát hành Hà Nội theo mô hình gắn với phát triển đô thị Xuân Hoà (thuộc Vĩnh Phúc) để bảo đảm bình an quốc phòng và giảm sức ép vào đô thị trung tâm Hà Nội, với định hướng dân số thành phố Thủ đô cũ khống giễu cợt 40 vạn dân và phát triển thủ đô lên Xuân Hoà (Vĩnh Yên) với 60 vạn dân. Mô phỏng này có kết quả không như mong muốn vì thiếu nguồn lực thi hành, thiếu cách thức quản lý.

Sau thống nhất nước nhà, Hà Nội điều chỉnh địa giới được mở rộng năm 1978 (2136km2) đến 1991 đã nhân tố chỉnh lại còn 924km2 và đã có yếu tố chỉnh QHC được phê phê chuẩn tại Quyết định 132/CT năm 1992 với xác định phương hướng phát triển tới 2010. Công đoạn thực hiện đã nảy sinh phổ quát tồn tại, bất cập nên đến 1998 đã có QHC tới 2020 được phê chuẩn y tại Quyết định 108/1998/QĐ-TTg. Để thực hiện có kết quả đã kết nối QHC Hà Nội với phát triển các đô thị theo chuỗi trong quy hoạch vùng Thủ đô. Phát hành khu vực Hoà Lạc, Xuân Mai, Sơn Tây… có thể xem là những tìm hiểu bước đầu về quy hoạch thành phố vệ tinh của Hà Nội sau này. Thời kỳ thực hiện QHC 1998 đã thấy rõ hơn những sinh tồn về: Mối quan hệ với vùng Thủ đô; Sức ép dân số, hạ tầng công nghệ vào trọng tâm Hà Nội; Đòi hỏi bảo kê môi trường và hài hoà giữa sản xuất với bảo tồn.

Vì vậy tới năm 2008, Thủ đô đã mở mang địa giới lên 3344km2 và QHC cho Hà Nội đến 2030 đã được phân tích và Thủ tướng phê phê duyệt tại quyết định 1259/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 đã xác định cấu trúc chùm đô thị sau khi được Quốc hội, Bộ Chính trị duyệt y, phổ biến công ty phường hội, nghề nghiệp và nhân dân góp ý, trả lời, phản biện.

Quy hoạch được phê phê chuẩn lần này đã định hướng và chắc chắn Thủ đô sản xuất theo mô hình chùm đô thị gồm: thị trấn trọng điểm, 05 đô thị vệ tinh, các đô thị được kết nối bằng hệ thống giao thông các con phố vòng đai, trục hướng tâm. Thị trấn trung tâm phân cách thức với đô thị vệ tinh, các thị è bằng hành lang xanh (vòng đai xanh, nêm xanh, khu vực chợ). Điểm thấy rõ nhất trong cấu trúc đô thị lần này là các thành phố vệ tinh gắn kết với đô thị trọng điểm nhưng có chức năng riêng, đặc trưng để cùng thực hiện vai trò là Hà Nội, bao gồm: Thành phố vệ tinh Hoà Lạc: Có tác dụng chính về kỹ thuật công nghiệp và huấn luyện với dân số 0,6 triệu, diện tích đất xây đắp đô thị 18.000ha; Thị trấn vệ tinh Sơn Tây: Văn hoá lịch sử, ngao du nghỉ dưỡng, phục vụ đào tạo, y tế với dân số 0,18 triệu, đất xây dựng thành phố 4000ha; Đô thị vệ tinh Xuân Mai: Phục vụ - Công nghệ cung cấp, tiểu thủ công dịch vụ thương nghiệp, đào tạo, dân số 0,22 triệu, đất xây đắp thành phố 4.500ha; Thị trấn vệ tinh Phú Xuyên: Công nghiệp, làm mai liên lạc. Các khu cụm kĩ nghệ dân số 0,12 - 0,13 triệu, đất xây đắp thị trấn 2.500 - 3.000ha. Đô thị vệ tinh Sóc Sơn: Công nghệ, dịch vụ hàng không, ngao du nghỉ ngơi, trọng tâm y tế, giáo dục, dân số 0,25 triệu, đất xây dựng thị trấn 5.500ha.

Tương tự, các thành phố vệ tinh đều có chức năng hỗn thích hợp, song vẫn có tác dụng đặc thù, hoạt động tương đối chủ quyền để hỗ trợ đô thị trọng tâm. Qua 5 năm thi hành định hướng trên, đến nay đã phê phê chuẩn QHC 04 Đô thị vệ tinh (riêng Hoà Lạc đang hoàn chỉnh trình Thủ tướng duyệt). Tổng quan cho thấy đây là thời cơ để phát triển Thủ đô bền vững, có sức cạnh tranh, xứng tầm với vai trò, vị thế là Thủ đô. Mô phỏng sản xuất Thủ đô theo chùm thành phố với 05 thị trấn vệ tinh là biện pháp kết tinh trong khoảng giai đoạn đã phát triển, từ kinh nghiệm của quả đât và dự báo bối cảnh tạo ra trong mai sau.

Thủ đô đã có quy hoạch có lí song cần và quyết định là doanh nghiệp chấp hành, xác định nguồn lực, xây đắp thể chế nhạo quản lý đồng bộ. Thủ đô đang triển khai đẩy mạnh xây dựng các thành phố vệ tinh, song cũng thấy rõ còn phổ thông thách thức, nhất là nguồn lực thực hiện, cơ chế chế độ đặc trưng. Chờ đợi mô hình thị trấn vệ tinh này sẽ biến thành thực tế với nỗ lực trong khoảng quản lý, sự vồ cập của giới chuyên ngành, đồng thuận của quần chúng. # và tranh thủ hội nhập.

TS. KTS. Đào Ngọc Nghiêm
Phó Chủ tịch Hiệp hội Sản xuất thành phố vn


Theo kientrucvietnam.org.Việt Nam


Xem nhiều hơn: máy bơm công nghiệp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét