Nói về các nhà cửa của Lương Đức Thiệp gây để ý khi tái phiên bản gần đây, nhà phê bình Mai Anh Tuấn nghĩ rằng người đọc có nguyên do để đặt niềm tin tham gia những trị giá đã qua thách thức.
Theo Mai Anh Tuấn, các công trình của Lương Đức Thiệp dù xuất phiên bản đã lâu, nhưng đã là trị giá trải qua thử thách, thì khi đọc ở thời gian nào cũng gây sửng sốt, ngạc nhiên vì sự bền vững nhưng tươi mới.
- Xin anh cho biết đôi nét nổi bật trong sự nghiệp của Lương Đức Thiệp?
- Không thật sự có phổ biến tin tức xác nhận về tiểu truyện Lương Đức Thiệp (ngoài phỏng đoán ông sinh năm 1904, mất năm 1946, quê ở Hưng Lặng). Nhưng nhìn vào những trước tác của ông còn lại tới nay, có thể bình ổn chân dung ông ở mấy điểm nổi trội.
Trước tiên, ông thuộc thế hệ trí thức tân học, hoạt động chủ quản trong ngành văn hóa văn nghệ, ủng hộ và phần nào trở thành yếu nhân của khuynh hướng “tri tân” diễn ra khá mạnh mẽ đầu thập niên 1940.
Chính trong thời gian này, Lương Đức Thiệp không chỉ gặp mặt, đồng điệu tư tưởng với đa dạng tiếng nói đương thời xoay quanh nhóm Hàn Thuyên, mà còn mau lẹ hấp thu tinh thần của chủ nghĩa Mác khi để ý, nhận mặt, khảo cứu phổ thông điều văn học, phố hội vn.
Chỉ trong vòng dăm năm, Lương Đức Thiệp đã kịp ghi dấu ấn quan niệm qua loạt các nhà cửa: vn thi ca luận (1942), Xã hội vietnam (1944), Văn học và phố hội (1944), Nghệ thuật thi ca (1945), Duy vật sử quan (1945)…
Tôi nghĩ, bên cạnh kỹ năng chuyên môn, sự tựu thành chữ nghĩa của Lương Đức Thiệp còn cho thấy ông là người nồng nhiệt, nghĩa vụ, thao thức với hiện tình nước nhà lúc bấy giờ. ngừng thi côngĐây là nhân tố mà chúng ta vẫn thường trân quý mặc dù thời thế có biến chuyển thế nào.
- Sau một thời điểm các cuốn sách của Lương Đức Thiệp ít được biết tới, trong năm nay, nhì nhà cửa của ông đã được tái bản. Anh bình chọn như thế nào về sự quay về này?
- Sự quay về của Lương Đức Thiệp, trước nhất, là một nụ cười, chí ít với những người đon đả tới tình hình sách vở, trứ tác thời kỳ trước 1945. Nhưng cần thiết hơn, bằng cách thức phục hồi dần những gương mặt bị quên khuấy, chúng ta càng có thời cơ tiệm cận tới một tưởng tượng chính xác về độ nhiều chủng loại, sinh động, những như nhau và khác biệt, của đời sống văn chương, văn hóa dĩ vãng.
Mới đây, khá đa dạng cảo thơm, phổ biến thân danh tưởng đã mờ chết thật, liên tiếp được tái bạn dạng, giới thiệu lại. Tâm thế “ôn cố” ấy, theo tôi, chứng tỏ sự chín chắn, bổn phận và uyên bác của bữa nay. Nếu như mãi chú mục tham gia những gì trước mắt, “ăn ngay” thì chẳng thể nào có căn nền hiểu nhân thức sâu rộng.
Tôi nghĩ, phổ thông người đọc có nguyên do để đặt niềm tin vào những giá trị đã trải qua thách thức. Bởi chúng, bao giờ cũng vậy, gây kinh ngạc, ngạc nhiên vì sự vững bền nhưng tươi mới và lôi cuốn của các quan niệm, phản hồi, nhận thấy. Tôi cũng có cảm giác như thế khi đọc Lương Đức Thiệp.
Sách Việt Nam thi ca luận và văn chương xã hội mới tái bạn dạng. |
- Quyển “Việt Nam thi ca luận và văn học thị trấn hội” thành lập cùng công đoạn với “Thi nhân Việt Nam” nổi tiếng của Hoài Thanh, Hoài Chân. Vậy đâu là điểm khác lạ trong công trình của Lương Đức Thiệp?
- Quả đúng là đã có sự kế cận về mặt thời gian của nhị tòa tháp trên. Trong khi Thi nhân vn, từ lâu, được coi là một điển phạm phê bình thơ (đặc biệt là phê bình thơ Mới) thì vietnam thi ca luận và văn chương thị trấn hội của Lương Đức Thiệp toàn bộ ít được nhắc đến.
Có phổ thông nguyên do nhưng căn bản nhất, theo tôi, cái cách thức “luận” giàu lý tính, chính trực và thỉnh thoảng mang hơi hướm “giáo khoa thư” ở công trình này nhường như chơi phù hợp “gu” tiếp nhận của tập thể bấy giờ. Giữa lúc chủ nghĩa lãng mạn chưa hết ngả bóng, độc giả vẫn còn háo tình cảm, cảm tính thì sự luận bàn, phân tích theo hướng phường hội học của Lương Đức Thiệp quả có vượt ngưỡng khẩu vị.
Dĩ nhiên, tôi phải nhấn mạnh rằng các quan điểm, phản hồi hay gợi thành lập đa dạng của Lương Đức Thiệp là khá bám sát thực tại văn chương, phường hội Việt Nam. Nó không nhằm vào sự “vừa lòng” hầu hết mà muốn hồ hết nhìn sâu, nhìn rộng điều. Thành ra, Việt Nam thi ca luận và văn học xã hội vừa cung cấp tri thức, vừa có kĩ năng xúc tiến tri thức tưởng là sách vở ấy đi tham gia thực hành, gắn với đời sống.
Sẽ thật đơn điệu, thậm chí nhàm chán nếu như cứ mãi xưng tụng Thi nhân Việt Nam mà không sắm biết các công trình khác cùng thời. Sự sắm biết này, ví như kỹ lưỡng, sẽ giúp các bạn đọc quen khung văn chương nhà trường nhìn thấy nhiều khoảng trống khác, nhóng nhánh và phổ quát hơn rộng rãi chứ không phải chỉ có năm ba xác tín quen mòn.
Tựu trung, khảo cứu văn chương của Lương Đức Thiệp động viên chúng ta chủ động, tự bản thân mình thu thập, nhìn kiếm được phần văn chương công đoạn đầu thế kỷ XX một cách toàn bộ hơn.
- Theo anh, vì sao cuốn “Xã hội vietnam từ sơ sử tới cận kim” từng bị rơi tham gia quên lãng, đến nay vừa mở bán đã tạo sự để ý của giới tìm hiểu?
- Cuốn Thị trấn hội vn trong khoảng sơ sử tới cận kim là tòa tháp lý tưởng hơn cả của Lương Đức Thiệp. Cuốn sách từng được tái bản ở miền Nam (1950, 1971). Lần này (2016), nhà sách Tao Bè phái đã bỏ công phục dựng, chỉnh sửa, ghi chú rất cụ thể, kỹ càng.
Để nói ngăn nắp về nhà cửa này là không dễ. Nhưng bước đầu, tôi xin nêu mấy cảm nhận: Thứ nhất, cuốn sách này nằm trong mạch thông thường của một vài trí thức tân học muốn tìm về phiên bản lai diện mục quá khứ, căn cước dân tộc. Họ làm điều đó, một mặt, để khẳng định những trị giá, đặc thù riêng có của vn, mặt khác, kiến lập ngôn ngữ đối trọng, đối thoại với các quan điểm, đánh giá tới từ những “kẻ xa lạ” mà thường là học giả Pháp.
Thực ra, cho tới thời điểm Thị trấn hội vn xây dựng thương hiệu (1944), những tòa tháp của Phan Kế Bính, Đào Duy Anh, Trằn Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Huyên hay của L. Cardière, G. Dumoutier, J.Silvestre,… về phong tục, văn hóa, tôn giáo, lịch sử vn đã tương đối giàu sang và phổ biến phân tích trong đó, cho đến nay, vẫn còn nguyên sức lôi cuốn.
Đương nhiên chúng cũng phóng chiếu khá rõ trong Thị trấn hội vn. Dù thế, công khái quát, tóm lược, diễn giải của Lương Đức Thiệp là rất lớn. Ông cũng có sự bình tâm nhất thiết khi tìm kiếm, giải quyết tài liệu và khác lạ, khi đưa ra chính kiến. Vì thế, điểm thứ hai đáng xem xét của tòa tháp này, là cố gắng nắm bắt vietnam.
Về căn bản, Lương Đức Thiệp cũng khai triển theo hướng phân phối ngành, phân loại các thành tố (kinh tế, chính trị và công ty, phong tục sinh hoạt, văn minh tinh thần) là thao tác thông thường của các phân tích về vietnam lúc bấy giờ. Nhưng ngoài điểm danh, miêu tả, ông còn hướng đến bố trí, cấu trúc hóa các thành tố, nên đọc ông, ta thấy có sự nghiêm ngặt, mạch lạc.
Tôi nghĩ, ông vừa phát hành, nối dài các luận điểm từng có của người đi trước, vừa giữ được sự điềm đạm, kết hợp để không rơi tham gia sự cực cam đoan duy tân hay hủ lậu hồi cố.
Có được nhân tố này là do Lương Đức Thiệp biết ứng dụng nguyên lý xã hội học Mác-xít khi khai triển lập luận, chứng minh. Ông nhấn mạnh rằng mỗi một cách thức kinh tế ấn định một chế độ chính trị tương đương và một khi cái hạ tầng kinh tế biến đổi thì đồng sành điệu tầng xây dựng chính trị cũng chuyển đổi theo.
Thành ra, trong Phường hội vn, trong khoảng việc phân tách đặc trưng kinh tế nông nghiệp, Lương Đức Thiệp dần liệt kê vài đặc trưng của cấu trúc phố hội, chính trị, tư tưởng Việt Nam qua lịch sử. Ở đây, việc tiếp xúc tư liệu đa nguồn, cái mà giờ đây chúng ta hay gọi là liên lĩnh vực, rất được Lương Đức Thiệp lưu tâm và xử lí khá tinh tế.
Tôi thấy, về sau, một vài tìm hiểu vietnam vẫn thường bắt đầu như vậy. Còn giả dụ so với cái gọi là các tiểu luận, luận án “văn hóa học” bùng nổ bây giờ, công trình Lương Đức Thiệp xứng đáng là cẩm nang học thuật. Tôi hy vọng các bạn đọc là sinh viên ngành nghề công nghệ phố hội sẽ hứng thú, học hỏi được đa dạng trong khoảng tòa tháp này.
Sách Xã hội Việt Nam từ sơ sử đến cận đại. |
- Bạn dạng sắc Việt, những đặc tính căn bản của dân tộc mà Lương Đức Thiệp đưa ra trong cuốn “Phường hội vn” là gì?
- Như tôi đã nói, Lương Đức Thiệp sản xuất chính kiến của bản thân trong bối cảnh sự nắm bắt về vn đã tương đối dày dặn. Nhấn mạnh điều này cũng là để khẳng định sự cập nhật, cộng hưởng của Lương Đức Thiệp. Ông đề cao các yếu tố phiên bản địa (mô phỏng công ty thị trấn thôn, kinh tế hộ gia đình dựa trên năng lực bán buôn nhỏ tuổi của đàn bà, đạo thờ tiên tổ,…) để chắc chắn có một “vn tính” khá riêng. Nó tuy chịu ảnh hưởng Trung Hoa nhưng không hoàn toàn tương đồng.
Nó cũng có “đức tính” và “tật xấu”. Ta có thể nêu lại đây vì không khó kiểm chứng ngay cả trong thời điểm hiện nay: thông minh nhưng dễ trở thành “não tinh vặt”; yêu thích học nhưng để khiến kế mưu sinh là chính; có tôn giáo nhưng thực dụng chủ nghĩa, hướng đến cái lợi trước mắt; ưa hòa bình song cũng biết hy sinh vì đại nghĩa; ít suy tưởng miên man nên không có chủ nghĩa siêu hình nào; có khiếu thích ứng, tài mô phỏng nhưng ít sáng tạo; ưa hư danh dù kiên cường, cần mẫn…
Như vậy, Lương Đức Thiệp không hẳn là người tự si mê dân tộc bản thân mình mà nhiều lần nhắc nhở người đọc phải trực diện với những thiếu sót, hạn nhạo báng vốn có của cả tập thể. Nhân tố “vn tính”, xét đến cùng, không đặt ra một lần cho chấm dứt mà phải được cật vấn, diễn giải, hội thoại liên tiếp thì mới đích đáng. Tôi tin, đọc hoàn thành Xã hội vietnam, đây đó sẽ có những đối thoại, trao đổi cởi mở, chính trực và vỡ vạc lẽ.
Tham khảo thêm: tin thời sự
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét