Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2017

Quản lý chiều cao công trình Bất cập và biện pháp |

(Xây dựng) - Sự bùng nổ với tốc độ cao, mạnh các công trình tạo ra bất động sản (BĐS) thời điểm qua đang thể hiện tín hiệu “đánh đổi” mục tiêu thị trấn bền vững để phát triển. Khác lạ hai tiêu chí là dụng cụ quản lý cần thiết mà các thị trấn sản xuất trên nhân loại đều đã dùng chính là mật độ dân số và hệ số dùng đất đang bị chẳng chú ý, thậm chí là bị “thích hợp thức hóa” để phát hành công trình BĐS “xen cấy“ tham gia cơ thể nội đô bằng mọi giá. Bài viết dưới đây chỉ ra những bất cập trong bí quyết tính mật độ dân số và mật độ xây dựng ở một vài tòa tháp cao tầng hiện nay, đồng thời góp phần lý giải về sự điều hành lộn xộn, thiếu khoa học cần khắc phục.


Một góc thành phố Hong Kong (TQuốc)

Về phương pháp tính mật độ dân số và mật độ xây dựng trên trái đất

Trong quy hoạch đô thị, nhân loại có định nghĩa mật độ vật thể (physical density) và được chia thành 2 loại: mật độ dân số và mật độ xây đắp. Mật độ dân số là chỉ số giữa số lượng người trên diện tích khu vực cần tính; mật độ xây dựng là chỉ số giữa kết cấu xây đắp trên tổ chức diện tích.

Về mật độ dân số: Mật độ dân số bao gồm mật độ dân số khu vực và mật độ dân số định cư. Trong đó mật độ dân số khu vực có thể được hiểu là tỷ trọng giữa dân số trên diện tích khu vực. Khu vực được xác định bao gồm cả đất phát hành và đất chưa phát hành. Mật độ dân số khu vực là chỉ tiêu phân bổ dân số trong quy hoạch quốc gia. Còn mật độ dân số định cư là tỷ trọng dân số định cư trên quy mô đất ở. Mật độ này được chia khiến 2 loại, một là mật độ dân số định cư nhất thiết (net) và mật độ dân số định cư bao gồm khách vãng lai (gross). Đương nhiên, không có sự hợp nhất về cách xác định diện tích cho dân cư một mực (net) và diện tích cho dân cư bao gồm khách vãng lai (gross), tỷ lệ này được tính không giống nhau giữa các thành phố và các nước.

Diện tích dân cư bao gồm khách vãng lai được tính toán trên cơ sở sự toàn vẹn khu đất, bao gồm quy mô đất định cư nhất quyết và quy mô đất khác như con đường nội bộ, trên hè phố, nhà thờ, trung tâm công cộng dịch vụ khu vực.

Khái niệm mật độ dân số sử dụng là số lượng người sử dụng trên diện tích sàn của một doanh nghiệp ở (1 căn hộ), đơn vị ở có thể là một không gian của chủ sở hữu tư hoặc công như nhà ở, văn phòng. Tất nhiên tổ chức ở phải là diện tích khép rất dị. Mật độ dân số dùng khi kiến tạo nhà cửa là một chỉ tiêu rất cần thiết để dự trù các phục vụ nhà cửa như cấp điện, cấp nước, sưởi ấm, khiến lạnh, các thiết bị phòng cháy chữa cháy…

Về mật độ xây dựng: Một định nghĩa quan trọng luôn được đề cập chính là Hệ số sử dụng đất. Hệ số sử dụng đất tiếng Anh có thể là (Plot ratio) hoặc (Floor area ratio) là tỷ trọng giữa toàn cục diện tích sàn trên diện tích lô đất. Quy mô sàn được tính bằng toàn bộ quy mô trong phạm vi bao quanh tường ngoài công trình, bao gồm độ dày của tường, cầu thang, đường ống phục vụ, cầu thang, môi trường chuyển di.

Quy mô lô đất là diện tích tổng thể lô đất được cấp phép xây dựng, trong hồ hết mọi trường phù hợp diện tích này được xác định rõ trong giấy phép quy hoạch và giấy phép xây đắp.

Trong quy hoạch đô thị, hệ số sử dụng đất được sử dụng rộng rãi như một tiêu chí chuẩn để điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất và giữ vững phát hành. Hệ số sử dụng đất lớn nhất thường được kiểm soát trong quy hoạch cục bộ để vấn đề chỉnh chừng xây dựng và ngăn đề phòng phát hành quá mức.


Hình minh họa hệ số dùng đất và mật độ xây dựng.

Trong kiến tạo xây dựng, hệ số sử dụng đất được sử dụng đa dạng để thuyết trình thiết kế và lập ngân sách phát hành vì nó phản ánh số quy mô sàn xây dựng, do đó được sử dụng để ước lượng nguồn lực quan trọng xây dựng và có thể dự báo thừa hưởng

Nhuận cũng như sự thăng bằng nguồn vốn. Dường như đó, định nghĩa Mật độ xây dựng (site coverage) được biểu hiện bằng tỷ lệ giữa quy mô xây dựng trên toàn bộ diện tích lô đất , bởi vậy mật độ xây đắp dùng để đo tỷ trọng quy mô xây đắp. Tương tự như vậy, hệ số sử dụng đất và mật độ xây đắp là những chỉ tiêu được giữ vững trong đồ án quy hoạch tầm thường, quy hoạch chi tiết nhằm ngăn chặn việc xây đắp quá mức và bảo tồn cây cỏ, kiến trúc cảnh quan.

Ngoài hệ số dùng đất và mật độ xây dựng còn có các mật độ khác như mật độ dân cư khu vực cũng được biểu hiện dưới dạng mật độ xây đắp. Mật độ cư dân và số lượng nhà đất trên mỗi khu đất là chỉ tiêu cần thiết để lập chế độ quy hoạch, ví dụ ở Anh chính phủ cho phép mật độ cư dân là 30 nhà trên 1ha là mức tối thiểu để tạo ra nhà ở mới.


Quản lý đô thị theo nhì chỉ tiêu “mật độ dân số và hệ số dùng đất” tại TP New York (Mỹ).

Thực tại vn và những bất cập

Sự bùng nổ nhanh - mạnh về cường độ, rộng về diện tích của các dự án phát triển BĐS tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng… trong những năm gần đây đã cho thấy một thực tiễn là có tín hiệu của hiện tượng “tiến công đổi” chỉ tiêu thành phố vững bền để sản xuất. Các công trình được “xen cấy” trên các khu vực diện tích đất cũ, ăn theo cơ sở hiện có của khu vực khác lạ trong các khu vực thị xã nội thành vốn đã rơi vào trạng thái đem lại lợi nhuận đáng kể cho các nhà đầu tư nhưng để lại hậu quả quá vận chuyển, làm thị trấn phát triển thiếu cân bằng, chất lượng cuộc sống người địa phương thành phố có xu hướng suy giảm… Hai chỉ tiêu là dụng cụ điều hành quan trọng mà các thị trấn phát triển trên quả đât đều đã sử dụng chính là mật độ dân số và hệ số sử dụng đất đang bị xem nhẹ, thậm chí là bị “hợp thức hóa” để phát triển công trình BĐS “ xen cấy” tham gia cơ thể nội đô bằng mọi giá.

Qua phân tách bình chọn sơ bộ trạng thái quy hoạch - điều hành - đầu cơ xây dựng của một số công trình bất động sản tiêu biểu tại vài thị trấn và kinh nghiệm quốc tế, có thể kiếm được thấy dùng chuỗi hệ thống hai chỉ tiêu mật độ dân số và hệ số sử dụng đất chính là một trong những dụng cụ có hiệu quả để bình chọn - quản lý giữ vững thăng bằng và vững bền sản xuất công trình cao tầng nội đô tại các thành phố vn.

Về mật độ dân số: Trải nghiệm quốc tế đã liệt kê rằng mật độ dân số là chỉ tiêu vô cùng quan trọng để kiểm soát sản xuất trong khu vực thành phố. Dĩ nhiên, tiêu chí này đang được tính toán vô cùng sơ lược. Thuyết minh tổng hợp các đồ án quy hoạch không nói rõ phương pháp tính, cơ chế tính, dân số khăng khăng, dân số vãng lai, dân số chuẩn y, dân số phải khống chế…

Tại Thủ đô, khu thành phố Trung Hòa Nhân Chính phê duyệt số người dự định trong khu vực quy hoạch (32,86ha) là 12.600 người; khu nhà đất hồ Linh Đàm (160,9ha) 25.128 người; Ciputra (300ha cho cả 3 quá trình) 50.000 người; khu Đặng Xá (33,6ha) 13.000 người; Times City (36,5ha) 12.000 người… Nhiều phần các công trình trên tính toán quy mô dân số dự án bằng bí quyết lấy tổng diện tích sàn xây dựng chia 40-45 người (đối với phổ biến cư) và 70-80 người (đối với nhà liền kề hay biệt thự)…

Về mật độ xây đắp: Mật độ xây đắp và hệ số dùng đất cũng là những chỉ tiêu rất cần thiết của lĩnh vực Xây dựng trong điều hành quy hoạch đô thị. Tuy nhiên, trong một thời gian dài các địa phương đã thả lỏng và bỏ lỡ những pháp luật đề xuất. QCXDVN: 01/2008 đã không còn hệ số dùng đất và tiêu chí mật độ xây dựng giảm so với QCXDVN: 1997. Bên cạnh, trong các quyết định phê chuẩn y quy hoạch của chính quyền địa phương chỉ diễn giải mật độ xây đắp, hệ số sử dụng đất chung toàn khu mà không nói rõ hay cắt nghĩa về những lô đất có mật độ xây dựng hay hệ số dùng đất vượt quá quy chuẩn chuẩn y? Đây chính là một trong những căn do dẫn đến sự chất vận tải đô thị hay liên lạc chật hẹp và thiếu bãi đỗ xe trong các khu thành phố bây giờ.

TS. QLĐT Lý Văn Vinh/TCKTVN


Có thể bạn quan tâm: tin tức mới nhất

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét