Cụ Bùi Ngọc Lâu, sing ngày 17/6/1938, quê ở quận Kim Sơn, thức giấc Ninh Bình – giáo viên dạy môn Hóa học tại Trường phổ quát Cấp 3 Kim Sơn B (tỉnh Ninh Bình) những năm cuối thập niên 60 – đầu thập niên 1970. Trước khi về dạy tại quê nhà, thầy Bùi Ngọc Lâu từng dạy Trường Trung cấp Sư phạm Quảng Bình từ năm 1959 đến đầu năm 1962, Trường PT Cấp 3 Ba Đồn (Quảng Trạch) trong khoảng cuối năm 1962 đến giữa năm 1965. Ông là một trong số ít các giáo viên Hóa học dạy Cấp 3 được huấn luyện Đại học chính quy của Ngành Giáo dục hồi đó, cũng là lớp thầy giáo trước tiên của Trường Cấp 3 Ba Đồn nhiều người biết đến trong chiến tranh chống Mỹ cứ nước - thời gian tôi được học tập tại đây.
Chân dung thầy Bùi Ngọc Lâu
Khóa học 1969 – 1972, cụ Bùi Ngọc Lâu dạy học sinh È Đại Quang quẻ 3 năm liền từ lớp 8 đến hết lớp 10 tại Trường nhiều Cấp 3 Kim Sơn B. Học trò Trần Đại Quang đãng học nhiều năm kinh nghiệm đều các bộ môn; rất chăm ngoan, gương mẫu trong mọi sinh hoạt tập thể trường lớp - phố hội.
*
* *
Lần trước đi thăm thầy Đỗ Khắc Thành, khi đăng lên FB, bạn Hoàng Thị Minh Lý đọc được, đã viết Commnet: "Sao Lê quang quẻ Vinh lẻn đi một bản thân mà không rủ Minh Lý đi cùng, Lý rất tiếc. Không được tới thăm thầy, nhưng nhìn ảnh thấy thầy Thành mạnh bạo là mừng rồi. Xin kinh chúc thầy luôn khỏe mạnh, an toàn, hạnh phúc." - Chị Hoàng Thị Minh lý (FB "Minh Ly Hoang"), là bạn học trong khoảng thở thơ ấu - đổ vỡ lòng đến... hết lớp 10 với LQV).
Lần ni, trong khoảng sáng sớm (15/11/2016), liên tục gọi điện cho Minh Lý, nhưng có lẽ "người một nơi, máy ĐT một nẻo", nên chị ấy không nghe được và cũng chả thấy hồi tin lại; thế là đi một chính mình sang Gia Lâm thăm hai cụ Bùi Ngọc Lâu cùng Mai Xuân Trang.
Tất nhiên, khi dắt xe ra ngõ, gọi điện để thưa trước nhị Thầy, thì chỉ có thầy Bùi Ngọc Lâu là ở nhà, còn thầy Mai Xuân Trang đang đi chơi tận Bắc Giang, tối mới về; chị Cúc - hậu phi Thầy, lại đang về thăm quê.
Tôi vẫn "cố gắng" đi thăm một mình thầy Bùi Ngọc Lâu, vì đã định thế rồi.
*****
Giữa tôi và giáo viên Lâu thì cũng như muôn học trò khác của ông với thầy của bản thân mình. Nhưng trước khi ra Bắc, đi về quê hương Ninh Bình dạy học, tôi có một kỷ niệm với Cụ đúng thời điểm đó.
Hình ảnh hai vợ chông thầy Lâu
Trong bài báo "Thư gửi bạn lớp 10 xưa" ("Thăm giáo viên cũ phương pháp nay 50 năm: Nhớ về lớp 10 thuở ấy...") của tôi, có đoạn:
"Người bạn “chia tay” chúng ta quá sớm nữa, khi tiền đồ phía trước nhịn nhường như đang huy hoàng là anh Nguyễn Tuất – Đàn ông người thợ rèn “có tiếng” là ông Nguyễn Chịt. Lò rèn ông Chịt rèn rựa chặt củi sắc lẹm, dáng dao lại rất đẹp; cùng mọi nông cụ, vật dụng mái nhà khác… Chất liệu của lò ông, phần lớn là tậu lại sắt tà vẹt và đường ray tàu hỏa Pháp để lại trong khoảng thời “ăn rau má, phá tuyến phố tàu” (đầu cuộc KC chống Pháp) do dân Thổ Hạ bòn mót, giữ lại cung ứng đều đều. Chỉ những lò rèn cao thủ mới “xơi tái” được món nguyên liệu quá khổ này. Vật phẩm lò rèn ông “Mẹt Chịt” (tục danh bọ anh Tuất) luôn bán nhanh, nổi tiếng cả vùng 3 quận Quảng Trạch, Bố Trạch (lên tận chợ Khương Hà để đến được tay bà con dân tộc thiểu số), Tuyên Hóa (gồm cả Quy Đạt – Minh Hóa bây chừ nữa)… Nhà anh Tuất ở xóm Nhân Hòa, thôn Hòa Ninh, phố Quảng Hòa. Nguyễn Tuất, nối được nghiệp phụ vương nên gầy thế đã thành tay “thợ rèn” có hạng, rèn được đa dạng thứ dao rựa rất cao thâm. Năm 1964 – 1965, chiến tranh khởi đầu lan ra miền Bắc, phong trào “quân sự hóa” nổi lên trong khoảng mọi ngõ thôn trang quê nhà; thế là bỗng chốc mỗi cư dân QB là một “chiến sĩ” kiểm soát an ninh Tổ quốc. Ban sơ thầy Bùi Ngọc Lâu dạy Hóa (người Phát Diệm, Ninh Bình), thầy Thành (người Lâm Thao, Phú Thọ) dạy Sinh vật (C3 Quảng Trạch) nhờ cánh tôi đặt rèn dao găm cho các thầy để “hộ thân” do biệt kích nhảy đầm dù hoặc trong khoảng biến tham gia, khi đi bộ ra Bắc (được chuyển công tác) và dịch vụ sinh hoạt dọc trục đường. Thời ấy, người nào bạn nào ra Bắc cũng đều phải chuẩn bị vật thiết yếu vậy. Tôi bàn với Tuất rèn 2 con dao găm này tặng nhị thầy. Nhẩn nha lan ra trong phổ quát đứa cùng trọ học ở Đông Dương như Đồng (Cu Khải), Quang quẻ (Mẹt Hiều), Nai lưng Kim Đính (Đính Bổn), Nguyễn Bằng... Thế là Tuất biến thành “nhà cung cấp” cho tụi đại trượng phu mỗi đứa một “kiệt tác” dao găm có rãnh sâu đường “thoát huyết” thứ thiệt (“tiêu chuẩn hóa” như dao lính). Dao găm chúng tôi luôn “thủ” trong người, “sẵn sàng” cùng người lớn “bắt biệt kích”, hoặc “tóm phi công Mỹ” nhày dù... Con dao găm được bạn hữu ta luôn đeo bên bản thân, từng trở nên “mốt” (mode) – cho sự kỳ khôi (kỳ dị), đỏng đảnh, khiến cho duyên của các chàng “thư sinh” đồng ruộng; chứ không phải để đâm chém, sát phạt nhau như những kẻ ăn cướp, hư hỏng bây chừ... Nguyễn Tuất rất tài "học thuộc lòng" (phần lớn) mọi môn học từ toán, lý, hóa tới văn, sử, địa, chính trị, ngoại ngữ... Anh ngồi học mà như "ngâm giọng Bắc" rõ to vang xa khắp xóm, bạn nào qua trục đường nghe cũng “ngẩn người ra” vì phục sự yêu thích học của cậu học sinh này. Nguyễn Tuất mơ ước được tuyển vào “Khoa Cơ khí” – Trường Đại học Bách khoa Hà Nội – mới “trúng tủ” với truyền thống nghề rèn của mái ấm chính mình. Thế nhưng số phận lại đưa đẩy Nguyễn Tuất tham gia học tại Trường Đại học Kinh tế – kế hoạch. Sau 4 năm dùi mài học hành, sinh viên Nguyễn Tuất được giữ lại để trường tập huấn tiếp thành “cán bộ giảng dạy” ở đây. Chưa kịp “êm chỗ” trên cương vị mới, anh đã phải tòng quân. Đang trong thời gian rè luyện, người chiến sĩ trí thức trẻ phơi phới vậy, lại bận rộn luôn bệnh “máu trắng”. Nguyễn Tuất được quân đội đưa đi chữa trị tại Quân y viện 304 ở Thủ đô (Bệnh viện này gần Cột cờ Hà Nội). Được một số 04 tuần, anh khuất tại đây luôn. Trong thời gian Nguyễn Tuất nằm viện, tôi có đến thăm bạn được một số lần".
*****
Còn nhớ, sự "chơi" của thầy Bùi Ngọc Lâu là cầu kỳ lắm.
Hôm Thầy chạm mặt tôi để sai rèn dao găm, cụ gọi ra sau gát (ở Đông Dương, Pháp Kệ gọi phía rừng tràm - reèng reèng sau làng là "gát"). Tay cầm con dao găm bé dại, dài khoảng 20 phân Tây cả chuôi lẫn lại (lưỡi dao); Thầy nói: Con dao này là của "ngoại" đấy, chuôi nó bằng "Polime". Tôi không nắm bắt: "Pô li me" là thứ chi rứa hả Thầy? Cụ giải thích:
"Polime là những hợp chất có phân tử khối rất lớn do phổ thông tổ chức ốm (gọi là mắt xích) cấu kết với nhau tạo nên. Hệ số "n" được gọi là hệ số polime hóa hay độ polime hoá hay hệ số trùng phù hợp. Polime có 3 loại: Theo cỗi nguồn: polime thiên nhiên (có căn nguyên trong khoảng tự nhiên), polime tổng hợp, polime nhân tạo hay bán tổng hợp. Theo cách trùng phù hợp: polime trùng phù hợp, polime trùng ngưng. Theo cấu trúc: polime mạch thẳng, polime mạch nhánh, polime màng lưới không gian...". Đại loại Thầy nói rứa, sau này, tôi mày mò lại thì đúng mực như ri - lời Thầy.
Tôi thưa: "Ở Hòa Ninh, không mần được thứ ni". Thầy nói: "Khiến sao được, chỉ cần cán gỗ mà đẽo cho thật đẹp là được".
Về nhà, tôi nhờ ông Tri Hòa, thợ tiện thể để cụ ni tiện cán dao cho Thầy. Đẹp lắm, nó bằng củi "ran" rất cứng. Con dao sẽ giúp Thầy tôi trong mọi sinh hoạt của quãng tuyến phố đi bộ từ Quảng Bình đến miền Bắc xa xăm...
*****
Sáng nay, khi mới bước vô nhà, Thầy đã vồn vập phê bình luôn: "Vinh soạn bài về thầy Đạng khá hay, nhưng...sai sự thực!". (Bài báo "Thầy Nguyễn Quang đãng Đạng trong tôi", in trong tập sách "Một thời đáng nhớ" của Trường cấp 3 Quảng Trach.
Hình ảnh thầy trò Bùi Ngọc Lâu và Nhà báo Lê Quang Vinh
Tôi thưa: "Sao lại rứa hả Thầy?". Thày cao giọng: "Hồi ấy mi học lớp 8, không khách hàng nào dạy "Giá trị thặng dư" cả". Tôi bật lên, biện hộ lại: "Thưa Thầy, là lớp 9, có học "Triết học", chương "Chủ nghĩa tư bạn dạng". Có vẻ... Thầy chịu; nhưng nói thêm: "Ông ấy giảng chưa tới mức như mi viết đâu". Tôi lạng lẽ.
Nhân đây, cũng nên nói một số lời về tập sách "Một thời đáng nhớ" với Thầy Bùi Ngọc Lâu - người có đến mấy bài trong đó.
Tôi dạn dĩ thưa: Em thấy cuốn sách "hỗn lốn" thế nào ấy. Nó được NXB "Hội Nhà văn" xuất phiên bản nên "oai" lắm chứ. Nhưng chắc các BTV (biên tập viên) của nhà xuất bản này không đọc, họ thấy tiếng tăm store mấy chục học trò "vai vế" được ghi danh trong sách nên in đại cho dứt. Chỉ tiếc nuối là sao không làm một tập sách riêng của thầy Phạm Ngọc Căng và thêm chỉ rặt di cảo của các thầy giáo cũ thời đó (đã chết thật) thôi, vì có phổ thông bài viết và tư liệu các thầy để lại rất đáng trân trọng. Đằng này lại sưu tập "đủ thứ mà rằn", đậm đặc các bài viết "vô thưởng, vô phạt", thiên về "lên tiếng thành tựu" xưa và nay (thì hiện nay của Trường THPT số 1 Quảng Trạch - nay là Trường THPT Lương Thế Vinh?). Hàng mấy chục học sinh tài danh ấy mà chỉ "đẻ" được tập sách chất lượng vậy sao? Sự góp mặt như để "bác diện" là chính. Cho nên, tập sách chả nói được gì cho nghề dạy học hiện đang rất cần "canhh tân"!. (Bài học gì của việc "dạy và học" trong ngôi trường xưa nó như thế nào, bởi suýt "nhân vật" của thời đó mà lại? Cái gì còn có giá trị tới không gian GD của ngày hôm nay cho ngôi trường hiện tại?). Kỷ niệm về trường cũ, thầy cũ mà sáo vẹt, vô hồn; rặt những chuyện người nào ai cũng nhân thức cả rồi "khổ lắm nói mãi", đầy đủ tất cả đều giọng điệu chung ấy, nên ít gây xúc động cho người đọc...(Có khá phổ biến bài thơ "con cóc", phổ thông hồi ký khoe mẽ ngày ấy chính mình học hành giỏi dang ra làm cho sao...). Rất may, phần cuối sách có đoản văn Nguyễn Quang Lập – Như “bó nứa khiến bè" để chở cuốn sách “sang sông” đưa đi in.
Những chuyện cũ về thầy cô giáo thời Giáo viên dạy chúng em, có khối chuyện vô cùng “cao khiết” nhưng mà giản dị, ngỡ như thân phụ dạy con trong mái nhà, bởi các cụ luôn dồn hết tâm trí và kĩ năng để làm cho giáo dục một phương pháp chất phác, công bình; vì vậy nó vẫn "thời sự oi bức" cho cả bữa nay.
chậm triển khai là cách thức dạy Sử với phong thái trầm tĩnh mà thu hút, trình tự bài bản; câu kết cùng giọng điệu đậm chất Huế như đức phụ vương tuyên giáo trong khu vui chơi của thầy Nguyễn Khoa Tịnh. Giờ Lịch sử của thầy là công đoạn phát huy tâm lý, dẫn dắt khơi gợi trí tuệ sinh viên để "cùng thầy" và "tự mỗi chúng ta" mày mò những huyền tịch trong mê cung tầng phân khúc lớp thời điểm nghìn năm lịch sử trái đất cũng như lịch sử quốc gia, lịch sử quê hương... Cho nên, giờ học Sử ngày ấy sao nó thiêng liêng, thu hút tới vậy. Đúng là giáo viên của chúng ta là người chịu trách nhiệm cùng phiên bản ngã GD của thiên chức nhà trường "vén màn kho báu" bộc lộ ra vẻ đẹp huy hoàng những pho lịch sử bi tráng trước sự ngỡ ngàng của lớp trẻ.
Rồi cách dạy Hóa "bí mật" như thầy phù thủy, như người khiến xiếc làm cho học trò phải "nín thở" đoán già đoán non qua bài giảng lý thuyết lẫn thực hiện của thầy Bùi Ngọc Lâu (người quê Phát Diệm - Ninh Bình). Cả lớp chúng em cực kì yêu thích, cứ mỗi bài mỗi chất hóa học, mỗi định luật…, qua cách thức dạy của Thầy là những câu chuyện khai sáng văn minh trong lịch sử quả đât. Ở Thầy là cả kho tàng văn hóa phường hội lẫn thiên nhiên đầy ắp ngỡ như không bao giờ vơi cạn ví như thầy dạy chúng em liên tục cả chục năm. Bí quyết phê học bạ “duy nhất vô nhì” của thầy nữa. Giai thoại như sau: Có anh Nguyễn Bá Trinh, con cụ Nghè Cơ người Hòa Ninh (thị trấn Quảng Hòa), học giỏi “siêu đẳng”. Cuối năm, thầy Lâu mất cả bốn tuần mới sắm được lời phê học bạ của ông thầy dạy nhà chưng học Albert Einstein người Đức, rồi sử dụng y nguyên thế phê luôn học bạ lớp 10 của học trò Nguyễn Bá Trinh (HS lớp 10 trước tiên của Trường Cấp III Quảng Trạch).
Người mặc áo vetton màu xanh đen là giáo viên Mai Xuân Trang tại lễ Kỷ niệm 30 năm xây đắp Trường cấp 3 Nam Quảng Trạch - năm 1996.
Bữa nay, việc đã sau mấy chục năm - hơn nửa thế kỷ rồi, chạm mặt thầy Bùi Ngọc Lâu tại nhà, tôi phấn chấn kể lại chuyện xưa; thầy nghe rồi chỉ biết cười ríu mắt mà vui đáo để.
Tư thế và cách dạy môn Địa lý của thầy Mai Xuân Trang cũng là “để đời” cho chúng tôi. Tôi nhớ khi học bài Địa lý về “Hệ thống sông Cửu Long”, khởi đầu bài giảng thầy đọc cho nghe bài thơ “Cửu Long giang ta ơi…” của Nhà văn Nguyên Hồng, với nhưng câu thơ hùng vĩ:
“Mê Kông sông dài hơn nhì ngàn cây số bao la
Nguồn tự Trung Hoa có Vạn lý trường thành
Có Hy Mã lạp sơn, Ðộng Ðình đại dương, Tây du, Thủy Hử
Mê Kông chảy
Cây lao đá đổ
Ngẫm nghĩ voi đi
Thác Khôn cười trắng xóa
Lan hoang dứa mật thông nhựa lên hương
Những trưa hè ngun ngất nắng Trường Sơn”.
Bài học về hệ rừng Trường Sơn “vừa che lính, vừa vây kẻ thù” và những đồng bằng màu mỡ trù phú 2 miền Bắc – Nam của nước ta, thầy đọc cho nghe mấy câu thơ trong bài “Bài ca Hắc Hải” của Nhà văn đa tài Nguyễn Đình Thi:
“vietnam nước nhà ta ơi
Mênh mông đại dương lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn (dập dờn?)
Mây mù che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương nhân thức mất yêu quý
Bao nhiêu đời đã đổ nhiều máu xương”.
Ủ dột qua đôi mắt cùng giọng đọc thơ “chất Nghệ An” trầm hùng mà thảng thốt, gieo vào tâm khảm học sinh tới mê say. Thầy đọc hay lắm, không thua kém giọng đọc diễn cảm của bất kỳ một giáo viên dạy Văn nào. Thầy vừa giảng vừa vẽ bạn dạng đồ, loáng một cái là hiển hình thành liền hình thù “năm châu bốn hồ”, hình thù nước VN liền một giải với cầu Thánh thiện Lương – sông Bến Hải đang trợ thì thời chia cắt đôi miền... Đa dạng thầy giáo khác, khi đứng lớp, một tay cầm phấn viết, một tay cầm giẻ lau, cứ ngồm ngoàm bụi phấn và lọ nghẹ. Riêng thầy Trang, một tay vừa phấn vừa giẻ lau, còn tay kia thường bỏ ra cầm giáo án hay sách giáo khoa, sạch sẽ ngăn nắp từ đầu chí cuối. Hình ảnh “Phiên bản đồ mới tường vôi cũng mới - Giáo viên lớn sao, thước bảng cũng lớn sao” và dáng người đậm nhưng “thư sinh” của thầy Trang ngày ấy trong cách ăn vận chiếc áo sơ mi vải “pô - pờ - lin” cũ kĩ cồn trắng nuột, quần ka ki tiến thưởng nhạt có nếp là sắc như dao và đôi sandal thầy đeo cũng tiến thưởng nhạt da bò là hình mẫu xuất sắc, là ước ao được khiến người “trí thức” trong thanh niên nhà quê nam sinh bè đảng anh. Hóa ra, người thầy cũng phải luôn song hành với trò như một hình ảnh đạo đức, thẩm mĩ cao khiết khai sáng đầy lãng mạn để dần góp phần tạo nên hoài bão, mong ước và tư cách sống trong khoảng tuổi trẻ vô cùng quan trọng của học trò.
Chắc chắn những chuyện tôi vừa kể, sẽ là những bài học quý cơ mà giản dị, dễ “thẩm thấu” cõi lòng lớp thầy cô hiện giờ, chứ không chỉ là "chuyện cũ chép lại".
Hà Nội, 18 giờ 32' - ngày 15/11/2016
Tham khảo thêm: máy bơm dân dụng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét