(Xây dựng) - Như bao miền quê khác của vùng đồng bằng Bắc bộ, cổng làng tôi nằm yên ả bên dòng sông Đáy thơ mộng, nó là kiến trúc rất dị mang chiều sâu văn hóa của làng quê. Phía sau chiếc cổng làng còn lặng đậm ký ức của những người con đi xa, để mỗi khi ta nhớ về không khỏi bổi hổi với hai tiếng “quê hương”. Bởi nhiều khi chúng ta biết sống và kính yêu cũng nhờ vào hai trong khoảng “hoài niệm” ấy.
Kiến trúc cổng làng tôi không quá cầu kỳ, chiếc cổng có hình mái vòm được xây bằng gạch nung già cùng những hình vẽ kĩ càng tinh xảo của chưng thợ cả khéo tay thủa ấy. Cạnh cổng được trồng một cây đa, theo thời gian cây đa mọc rễ lan nhanh bám tham gia thành cổng, phủ bóng mát ôm trọn lấy mái vòm cũ kỹ. Nó được xây lên như để phân biệt được rõ thôn Đoài với thôn Đông. Bước vào cổng làng, là bước vào một môi trường thuần việt với những ngõ ngóc ngoằn ngèo như hình chiếc xương cá nằm úp cùng những nếp nhà mái gói, trước sân nhà là những hàng cau thẳng đứng. Bên trong làng còn có đình làng nằm uy nghi bên cây đa, bến nước, nơi chứng kiến nhân thức bao câu chuyện vui bi hùng, những câu chuyện của cuộc sống làng phố ấy đã trở thành hoài niệm trong một thời kỳ sống dài của mỗi người con của làng.
Đi xa quê, mỗi khi đi về, bước đến cổng làng, tôi thường lắng bản thân tĩnh lại hít một hơi thật dài, như để trút đi những bon chen của phường thị ồn ào. Tôi lần tậu ký ức tuổi thơ của bản thân mình trên bức tường loang lổ, trên những rễ đa bám tham gia thành cổng. Tuổi thơ tôi là những ngày cuối năm gió mùa đông bắc thổi hun hút trên cánh đồng chiều khô nẻ, sương đang giăng bận rộn ngày một đặc lại làm cho đoạn đường dẫn về lối cổng làng như co lại, nhỏ xíu mịt mùng. Tôi dắt tay đứa em kế, bế đứa em út đang đói lả lếch thếch đi bộ ra cổng làng đứng chờ mẹ đi dạy học xa chưa về.
Để dỗ các em nín khóc tôi đã bày trò chơi bứt lá đa xếp hình mặt trăng chú cuội, do trèo lên thành cổng bứt lá rồi nhận ra một tổ chim, tôi cứ chíu chít với bè lũ chim non mà để em út tôi đã ăn một bụng lá đa vì đói quá. Em tôi lả đi, tôi vội bế em tham gia quán bác bỏ Sỉu cầu cứu, bác móc họng cho em tôi nôn ra hết rồi bác pha cho mỗi chị em một cốc sữa đặc hot. Chưa bao giờ tôi từng được uống thứ gì ngon như cốc sữa hôm ấy. Vừa uống tôi vừa khóc tấm tứt, tới nỗi bác Sỉu phải mắng “Tông môn nhà bay, uống đi khóc gì, con gái mà nhiều xúc cảm thế nay mai rồi khổ con ạ”.
Cổng làng cũng là nơi mẹ tôi đứng tần ngần tiễn bố đi phục vụ non sông trong những ngày đao binh. Nơi bà tôi cứ chiều đến lại ra ngồi trên gờ cổng nơi có rễ cây đa to trồi lên chờ bố tôi trở về. Tuyệt vọng, bà lê bước về trong khói bếp lam chiều đang loãng dần tham gia ban đêm.
Cổng làng cũng là nơi chứng kiến tôi lớn lên và ra đi rồi lại trở về để sắm nơi trú ẩn cho tâm hồn trên những nhánh cong nhánh nhỏ nhắn của cây đa cũ kĩ thụ. Khi nào cũng thế, bước qua cổng làng tôi sẽ rẽ vào quán chưng Sỉu, chưng đón tôi như đón cô con gái nhỏ bé có tâm hồn mãi bận rộn kẹt lại nơi này đi về. Bác bỏ sẽ lại pha cho tôi một cốc sữa đặc nóng rồi nhìn tôi quở mắng “Tông môn nhà bay, sao bay nhớ dai quá”. Bác bỏ hiện thời đã già lắm rồi, trên mặt bác bỏ chồng chéo những nếp nhăn tựa như những đoạn gấp khúc của năm 04 tuần cũ mòn được xếp lại. Bác bỏ kể, anh đàn ông cả nhà chưng bây giờ khiến to ngoài thị phố, giục bác bỏ ra ở cùng để luôn thể bề chăm nom lúc đau nhỏ tuổi già, nhưng bác khăng khăng không đi vì bác bỏ sinh ra và lớn lên bên cạnh chiếc cổng làng, nó như một phần máu làm thịt trong chưng làm cho sao xa cho được. Khi ấy tôi ôm ấp bác, cúi xuống dụi dụi tham gia bộ ngực tí hon guộc của bác bỏ mà cười “Đấy, bác cũng nhớ dai như con nhé”.
Dạo gần đây, bác Sỉu thường hay nhìn chiếc cổng làng rồi buông tiếng thở dài trĩu nặng. Chiếc cổng làng tôi bây chừ không còn như trước, nó được người ta xây một cái miếu và quây những tấm tôn sắt màu xanh dương loanh quanh năm lửa hương nghi chết giả. Chiếc cổng làng trở thành biến dạng một cách thức kỳ quặc. Cùng với hơi thở của cuộc sống hiện đại, làng quê ngày càng chuyển mình, thì việc bảo tàng, gìn giữ những di sản của làng, phường là một việc làm có lí, nhưng công tác ấy cần được giao cho những nhà chuyên ngành và người có đủ sự tao nhã về mặt thẩm mỹ, để chiếc cổng làng được bảo tàng nguyên trạng như vốn có. Bởi cổng làng là thây mặt cho sự chỉn chu, nằn nì nếp, chuẩn mực của dân làng.
Ở mỗi làng quê, cổng làng là kết tinh văn hóa, là cái hồn mang đậm chất thi vị, và cả sự linh thiêng của dân làng. Trải qua bao năm bốn tuần bom rơi đạn lạc, cư dân đã có lúc phải bỏ làng bỏ xóm đi tránh nạn, chiếc cổng làng cùng cây đa cũ kĩ vẫn đêm ngày sừng sững bám rễ nơi đất mẹ để đợi những người con trở về và nó cũng bám rễ trong tâm hồn mỗi người con xa quê.
Xem thêm: tin thời sự
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét